Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the wordpress-seo domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /home/duyenn/domains/duyennguyen.net/public_html/wp-includes/functions.php on line 6114
Xét nghiệm APTT - Duyen Nguyen

Xét nghiệm APTT

Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT) – Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT, PTT) đo thời gian huyết tương đông lại khi tiếp xúc với các chất hoạt hóa yếu tố tiếp xúc, đánh giá các con đường đông máu nội sinh và con đường chung.

Thử nghiệm aPTT được thực hiện bằng cách phục hồi lại calci huyết tương đã được citrate hóa khi có mặt vật liệu thromboplastic không có hoạt tính của yếu tố mô (do đó có thuật ngữ thromboplastin một phần) và một chất tích điện âm (ví dụ: celite, cao lanh [aluminum silicate], silica), dẫn đến hoạt hóa yếu tố tiếp xúc, do đó bắt đầu đông máu thông qua con đường đông máu nội sinh. Vật liệu thromboplastic cung cấp nguồn phospholipid.

Giới hạn bình thường của aPTT thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm và sự kết hợp thuốc thử / thiết bị, và nên sử tham chiếu tại địa phương. Trong hầu hết các phòng xét nghiệm, phạm vi bình thường là khoảng 25 đến 35 giây.

Không có tiêu chuẩn hóa xét nghiệm aPTT trên các hệ thống thuốc thử / thiết bị khác nhau tương tự như INR cho PT. Do đó, các giá trị aPTT từ các phòng thí nghiệm khác nhau không thể được so sánh trực tiếp. Để theo dõi heparin, mỗi phòng xét nghiệm nên thiết lập khoảng điều trị bằng cách xác định khoảng aPTT tương ứng với chuẩn độ protamine 0,2 đến 0,4 units /mL hoặc 0,3 đến 0,7 units/mL kháng yếu tố Xa.

Giá trị lâm sàng của aPTT:

  • Đánh giá chảy máu không rõ nguyên nhân
  • Chẩn đoán đông máu nội mạch lan tỏa (DIC).
  • Xác định giá trị nền trước khi bắt đầu liệu pháp chống đông.
  • Theo dõi điều trị heparin không phân đoạn (đối với những người có aPTT ban đầu bình thường).
  • Theo dõi liệu pháp điều trị bằng thuốc ức chế thrombin trực tiếp qua đường tiêm (ví dụ, argatroban, hirudin).

Lưu ý, các heparin trọng lượng phân tử thấp (LMW) thường không kéo dài aPTT. Nếu cần, có thể thực hiện theo dõi bằng xét nghiệm hoạt tính kháng yếu tố Xa. Tuy nhiên, việc theo dõi trong phòng xét nghiệm nói chung là không cần thiết ở những bệnh nhân không mang thai, vì đáp ứng chống đông máu với một liều cố định của LMW heparin tương quan nhiều với trọng lượng cơ thể của bệnh nhân.

Nguyên nhân của aPTT kéo dài:

  • Heparin – Heparin là một chất ức chế thrombin gián tiếp tạo phức với antithrombin (AT), chuyển đổi AT từ chậm thành chất bất hoạt thrombin nhanh chóng (yếu tố IIa), yếu tố Xa, và ở mức độ thấp hơn là các yếu tố IXa, XIa và XIIa.

Heparin trong mẫu máu (ví dụ, do lấy từ đường truyền tĩnh mạch trung tâm) có thể làm tăng aPTT giả. Xét nghiệm lặp lại được chỉ định nếu đây được cho là lý do kéo dài aPTT. Trong những trường hợp phức tạp hơn (ví dụ, không thể lấy mẫu ngoại vi, nghi ngờ sử dụng lén lút heparin), thời gian reptilase có thể được sử dụng để xác định xem heparin có phải là nguyên nhân kéo dài aPTT hay không.

  • Thuốc ức chế thrombin trực tiếp và chất ức chế yếu tố Xa trực tiếp – Thuốc ức chế thrombin trực tiếp và chất ức chế yếu tố Xa trực tiếp đều có thể gây kéo dài aPTT, mặc dù không có mối tương quan rõ ràng giữa mức độ kéo dài và liều thuốc.
  • Các thuốc chống đông máu khác – Fondaparinux có thể gây kéo dài aPTT nhẹ. Warfarin có tác dụng yếu đối với hầu hết các thuốc thử aPTT, nhưng liều warfarin cao có thể làm tăng aPTT, và warfarin sẽ làm tăng độ nhạy của aPTT đối với tác dụng của heparin.
  • Bệnh gan – Khi bệnh gan nhẹ, chỉ PT có thể kéo dài do ảnh hưởng chủ yếu đến yếu tố VII. Tuy nhiên, trong bệnh gan nặng và / hoặc mãn tính, cả PT và aPTT đều có thể kéo dài. Điều quan trọng, bệnh gan cũng liên quan đến việc giảm sản xuất các yếu tố chống đông máu. Do đó, aPTT kéo dài không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.
  • DIC – Các yếu tố đông máu bị tiêu hao và cạn kiệt ở bệnh nhân đông máu nội mạch lan tỏa (DIC). Điều này có thể dẫn đến PT và aPTT kéo dài. Điều quan trọng là, các yếu tố chống đông máu cũng có thể bị cạn kiệt và aPTT không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.
  • Bệnh von Willebrand – bệnh von Willebrand (VWD) có thể gây kéo dài aPTT vì yếu tố von Willebrand là chất mang (và chất ổn định) của yếu tố VIII. Nếu nồng độ yếu tố VIII đủ thấp, aPTT có thể trở nên kéo dài. Những bệnh nhân khác bị VWD có thể có aPTT bình thường.
  • Bệnh Hemophilia A hoặc B – Bệnh máu khó đông A (thiếu yếu tố VIII di truyền) và bệnh ưa chảy máu B (thiếu yếu tố IX di truyền) gây kéo dài aPTT ở những người bị thiếu hụt yếu tố nặng hoặc trung bình (ví dụ: hoạt động yếu tố ≤15%). Một số cá nhân mắc bệnh nhẹ có thể có aPTT bình thường.
  • Thiếu hụt yếu tố đông máu di truyền khác:

–   Thiếu yếu tố XI di truyền (đôi khi được gọi là bệnh ưa chảy máu C), thường gặp ở người Do Thái Ashkenazi.

–  Thiếu yếu tố XII di truyền, không liên quan đến chảy máu lâm sàng.

–  Thiếu di truyền các yếu tố X, V, prothrombin (yếu tố II), fibrinogen, hoặc thiếu hụt yếu tố phụ thuộc vitamin K kết hợp.

  • Có chất ức chế yếu tố đông máu – Chất ức chế yếu tố phổ biến nhất là yếu tố VIII. Đây có thể là các kháng thể (ví dụ, ở những bệnh nhân mắc bệnh ưa chảy máu A nặng phát triển đáp ứng miễn dịch với yếu tố VIII của người được truyền) hoặc các tự kháng thể. Các tự kháng thể đối với yếu tố VIII có thể liên quan đến bệnh tự miễn dịch, các bệnh hệ thống khác, hoặc biểu hiện xuất huyết mà không có nguyên nhân rõ ràng. Điều quan trọng là phải phân biệt giữa chất ức chế yếu tố VIII và các chất ức chế khác trong xét nghiệm aPTT như kháng đông lupus vì chất ức chế yếu tố VIII có thể liên quan đến chảy máu đe dọa tính mạng trong khi kháng đông lupus có thể liên quan đến huyết khối. Đặc điểm phân biệt của các chất ức chế yếu tố VIII là tăng thời gian kéo dài của aPTT sau một đến hai giờ ủ ở 37°C so với mức độ kéo dài sau năm phút ủ.
  • Kháng đông Lupus: Một số kháng thể kháng phospholipid (aPL) có thể gây kéo dài aPTT. Hậu quả là do sự can thiệp vào quá trình tạo thành phức hợp prothrombinase với phospholipid trong xét nghiệm in vitro. Kháng đông lupus được xác định bằng cách chứng minh sự kéo dài của xét nghiệm phụ thuộc phospholipid không trở lại bình thường khi bổ sung huyết tương bình thường nhưng lại trở lại bình thường khi bổ sung phospholipid dư thừa. Trong một nghiên cứu 55 trẻ em có aPTT kéo dài khi xét nghiệm trước phẫu thuật, 39 (71%) có kháng đông lupus [18]. Nguyên nhân bao gồm nhiều chẩn đoán (hầu hết là lành tính nhưng một số có khả năng cần điều trị). Mặc dù kháng đông lupus gây kéo dài aPTT, nhưng kiểu hình phổ biến nhất là tăng nguy cơ hình thành huyết khối hơn là chảy máu. Kháng đông lupus đôi khi ảnh hưởng đến prothrombin và kéo dài thời gian PT.
  • Thuốc – Một số loại thuốc (ví dụ: oritavancin) có thể liên kết với phospholipid và gây kéo dài thời gian xét nghiệm đông máu trong ống nghiệm, đặc biệt là aPTT. Nếu bệnh nhân dùng thuốc kéo dài aPTT cần điều trị bằng heparin, việc theo dõi và dùng thuốc phải dựa trên một xét nghiệm không nhạy cảm với tác dụng này, chẳng hạn như xét nghiệm kháng yếu tố Xa.
  • Bệnh đa hồng cầu (hematocrit> 55%) có thể kéo dài aPTT một cách giả tạo nếu lượng dung dịch chống đông máu citrate trong ống thu thập không được giảm một cách thích hợp.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0915589309